mường lát hoa về trong đêm hơi
Tám câu thơ mở đầu "Tây Tiến" đã gợi ra toàn cảnh những vất vả, gian lao, của chặng đường hành quân giữa thiên nhiên khắc nghiệt, rợn ngợp. Đó có lẽ là những ấn tượng sâu sắc và đậm nét nhất trong những kỷ niệm về Tây Tiến của nhà thơ. Xuyên suốt đoạn
Ngừng một lát , nàng hơi có vẻ ngập ngừng . Hai tay xoắn vào nhau như phân vân . Hít mạnh một hơi dài vào phổi rồi nàng nói tiếp. - Thiếp biết chàng mới từ bên Đại Việt sang đây cho nên không biết được đường đi trong cấm thành này .
Mường Lát hoa về trong đêm hơi". Hai câu thơ nhẹ tựa như một làn hơi mỏng, như một biển khói sương chốn rừng sâu thăm thẳm. Những đêm sương giăng đầy trên hành trình hành quân của người chiến sĩ, tưởng như muốn đem cái lạnh làm rệu rã mỏi mệt bước chân người
Mường Lát là một huyện miền núi phía tây bắc của tỉnh Thanh Hóa. phía bắc giáp huyện Mộc Châu tỉnh Sơn La và Lào. phía tây và nam giáp Lào. phía đông và
Xem thêm: Cúng rằm tháng 8 và các lưu ý quan trọng hàng đầu. Lưu ý khi chuẩn bị mâm cúng trung thu. Chọn hoa quả còn tươi, không bị dập úng. Chọn nải chuối tươi, vỏ căng mướt, không bị đốm đen, dáng hơi cong và có quả lẻ (số quả trong 1 nải là số lẻ).
Mường Lát [3] hoa về trong đêm hơi Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm Heo hút cồn mây, súng ngửi trời Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống Nhà ai Pha Luông [4] mưa xa khơi Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục lên súng mũ bỏ quên đời! Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch [5] cọp trêu người Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
'Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi/ Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi/ Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi/ Mường Lát hoa về trong đêm hơi' Những câu thơ của Quang Dũng vẫn in đậm trong tâm trí của người đọc về một địa danh cách TP Thanh Hóa gần 300 km, nơi đây còn in đậm dấu tích của đoàn quân Tây Tiến, đó là
Mường Lát hoa về trong đêm hơi " + Sài Khao, Mường Lát là hai địa danh tiếp theo được nhắc đến. Những cái tên như có sức tạo hình, nó gợi những nơi chốn hoang sơ, thưa vắng, heo hút. Những cái tên như những địa chỉ in hằn dấu chân người lính.
scupatinis1982. Dàn ý + Bài văn mẫu phân tích khổ 1 Tây TiếnPhân tích đoạn 1 Tây Tiến là tài liệu được đội ngũ giáo viên của VnDoc biên soạn chi tiết, cụ thể để các em học sinh lớp 12 hiểu, nắm rõ nội dung từng phần của bài và có bài làm mẫu để các em tham khảo, mở rộng vốn từ, các viết văn của Dàn ý Phân tích đoạn 1 Tây Tiến1. Mở bàiGiới thiệu nhà thơ Quang Dũng và bài thơ Tây Tiến. Quang Dũng là nhà thơ với giọng thơ phóng khoáng, trẻ trung, tươi mới. Và giọng thơ ấy được thể hiện rõ trong bài thơ Tây tiến.2. Thân bàia. Khổ thơ đầu“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”Câu cảm thán thể hiện sự tiếc nuối của tác giả về những ngày cùng binh đoàn Tây Tiến.“nhớ chơi vơi” trơ trọi, cô độc, mỗi nhớ vô định luôn thường biểu cảm “ơi” + từ láy chơi vơi âm hưởng tha thiết, ngân vang mãi trong lòng người.→ Nỗi nhớ da diết, trào dâng, tha thiết vang lên bao trùm cả không gian và thời gian.“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”“Sài Khao, Mường Lát” là những địa danh mà binh đoàn đặt chân qua gợi những kỉ niệm về một vùng núi cao, sương mờ → không gian thơ mộng, trữ tình.“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,….………………………………………Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.”“khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở, gian nan của thiên nhiên.“heo hút cồn mây” gợi độ cao của núi và độ sâu của dốc, vắng lặng, hoang vu."ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” diễn tả độ gập ghềnh, trắc trở của rừng núi giúp bạn đọc hình dung ra khó khăn, gian khổ mà người chiến sĩ Tây Tiến phải trải qua.“Pha Luông, mưa xa khơi” đứng ở trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm mắt của người lính Tây Tiến là cảnh làng xóm Pha Luông mờ ảo trong lớp sương vô cùng thơ mộng. → Đây là món quà xứng đáng cho những nỗi lực của người chiến sĩ.“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!”Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông ra đi của những người đồng đội là niềm đau xót cho những người ở lại.→ Những con người dạt dào tình cảm.“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”Người chiến sĩ ngày đêm đối mặt với nguy hiểm luôn rình rập nơi rừng thiêng nước sự hài hước, dí dỏm các chiến sĩ coi những nguy hiểm đó là chỉ là những tiếng gầm thét, những sự “trêu người” bên tai.“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.”Người chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu những ngày mùa, những gia đình lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi và cả những cô gái nơi Kết bàiKhẳng định lại giá trị của bài thơ Tây Tiến đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc, nhiều năm tháng qua đi nhưng bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị đẹp đẽ của nó và góp phần làm phong phú kho tàng văn học Việt Phân tích đoạn 1 Tây Tiến mẫu 1Quan Dũng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám. Bài thơ Tây Tiến được ông sáng tác khi nhà thơ Quang Dũng đã rời xa đơn vị Tây Tiến của mình một thời gian. Bài thơ là nỗi nhớ da diết chơi vơi của tác giả khi nhớ về những kỉ niệm hành quân cùng đồng đội qua những vùng núi Tây Bắc hiểm trở. Đặc biệt, qua khổ thơ đầu, tác giả đã cho người đọc cảm nhận đưuọc vẻ đẹp núi rừng thiên nhiên Tây Bắc cũng như con đường hành quan gian khổ của những người lính Tây tại đoạn mở đầu bài thơ, tiếng lòng của những chàng tuổi vừa đôi mươi đã thốt lên bởi nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, dấu ấn kỷ niệm đọng lại qua câu chuyện đời bao tâm hồn yêu nước thầm lặng“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơiSài Khao sương lấp đoàn quân mỏi…Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.”Một bài thơ viết về nỗi nhớ Tây Tiến, thế mà hai câu mở đầu của đoạn lại có ý nhắc về “sông Mã” trước nhất. Phải chăng dòng sông Mã uốn quanh nơi đại ngàn Tây Bắc là hình ảnh đã đi sâu vào lòng người chiến sĩ?“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơiNhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”Đây chắc hẳn là nơi đã gắn bó với các anh bằng những kỉ niệm đẹp nhất của thời trai trẻ, nơi mở đường cho những chiến dịch yêu thương, thắp cháy lên ngọn lửa của khát vọng tự do dân tộc hào hùng. Tiếng gọi nơi mái trường xin tạm dừng khép lại, dấu chân ai in dày trên những đỉnh núi cao, băng qua cánh rừng xanh những lá. Đoạn hành trình dài còn đó những gian truân, khó khăn và muôn vàn thử thách. Ở chốn xa, chỉ có tình đồng chí sống mãi, dìu dắt nhau vượt qua ngàn phong ba, bão những hình ảnh tưởng chừng như bình thường ấy đã khiến các anh phải trở nên “chơi vơi” khi quay đầu nhìn lại. Thông qua cách sử dụng hai từ “chơi vơi” đặc biệt của tác giả, một nỗi nhớ da diết, triền miên được thổ lộ theo cách nhẹ nhàng nhưng khó phai nhất. Tâm tư kia như được khắc trong tim, được vẽ lên đá, tồn tại với thời gian qua nhiều dáng vẻ, hình thù khác nhau. Đồng thời, khi kết hợp cùng với từ cảm thán “ơi” ở câu trên càng nhấn mạnh nên một cảm xúc khó tả, một chút xuyến xao trong lòng của toàn đoàn quân Tây Tiến, trong đó có cả Quang như hai câu đầu của đoạn thơ sẽ là khúc dạo đầu của hồi ức kỷ niệm thì hai câu thơ tiếp theo có lẽ lại là những miêu tả về đoạn hành trình đã được lưu dấu“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơi”Giữa những dãy sương mù dày đặc, giữa đêm gió rừng gào thét, đoàn quân vẫn miệt mài đi qua dù đang mỏi mệt, vất vả. Chút lãng mạn, nét đẹp thư sinh vẫn còn đó khi giữa đêm thâu nhận ra được hương hoa rừng lan tỏa. Bên cạnh mùi súng đạn tàn khốc, bên tiếng pháo, tiếng bom ngày đêm vang vọng, món quà nhỏ bé từ thiên nhiên ấy đã được các anh đón nhận thật chân thành nơi dải đất “Mường Lát” phảng phất hương thơm.“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trờiNgàn thước lên cao ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơi”Nối tiếp những cung bậc cảm xúc ở phía trên, việc sử dụng những từ láy có tác dụng gợi hình như khúc khuỷu, thăm thẳm, heo hút của tác giả đã khắc họa nên bức tranh hành trình hiểm trở thêm phần sắc nét. Con dốc cao sừng sững ngất trời đầy gian nan, cách trở với đường đi quanh co, gập ghềnh khiến cho mỗi con người khi cất bước đi lên gặp nhiều nguy hiểm khôn thế mà, dù băng qua gió, đi trong mây, nét hóm hỉnh của những chàng trai trẻ trong đoàn quân vẫn còn đó. Phải chăng phép nhân hóa “súng ngửi trời” kia của tác giả là minh chứng rõ ràng nhất trong bài thơ? Trước núi rừng hùng vĩ mây phủ quanh năm, giữa bộn bề nguy khó, sinh tử cận kề, tinh thần lạc quan của các anh vẫn luôn được gìn gọi “súng ngửi trời” nghe sao thật ngộ nghĩnh, hồn nhiên, nhưng càng gọi lại lại càng thấy thương vô cùng. Thương cho cái gian truân, vất vả, thương cho bao gian khổ, khó khăn của chốn rừng thiêng nước độc mà những người lính trẻ xa nhà phải chịu “ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”, ngẫm phép đối mà mới hay cho cảnh sắc thiên nhiên nơi đất trời Tây Bắc, người ở dưới nhìn lên như chốn tiên lạc xa xăm, kẻ ở trên nhìn xuống mịt mờ mây và sương mù che kín. Những ngọn núi, đồi cao, quanh năm không dấu chân người qua lại, “heo hút”, trùng trùng điệp điệp nay đã có các anh đi qua, mang theo cùng mùi sương vị dừng những câu thơ kết hợp nhiều thanh trắc miêu tả cảnh dốc đồi, tác giả đã viết nên một câu thơ với vần bằng xuyên suốt hết câu “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Một thoáng mênh mang đã tái hiện lên giữa cuộc hành quân, khi các anh dừng chân nơi ngọn đèo xa lạ, nhìn thấy bản Pha Luông cùng với những ngôi nhà. Tiếng “nhà” gọi lên nghe chiều bâng khuâng, làm xao xuyến mỗi tâm hồn, một tiếng khẽ thôi nhưng chứa nhiều nỗi man mác khôn nguôi, khó tả. Là vì lẽ đứng trước nơi chốn lạ trông thấy cảnh vật xa xăm mà gần gũi? Hay là vì nỗi nhớ nhà vẫn luôn gìn giữ nơi tim mỗi chàng trai Hà Thành cả một thời thơ dại chưa bao giờ rời xa mảnh đất cố hương?“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”Nơi núi rừng Tây Bắc hoang dã, là những ngọn núi ngất trời, những cánh rừng sâu đầy dã thú, con dốc cao sừng sừng cản bước chân người. Hành quân nơi địa hình hiểm trở như thế ranh giới của sự sống và cái chết thật thật mong manh và khó đoán. Đã có các anh phải kiệt sức vì chặng đường khắc nghiệt, gian nan, bỏ lại sau lưng chí hướng, những đồng đội trên đường. Thương những con người “dãi dầu không bước nữa”, để rồi “gục lên súng mũ bỏ quên đời” bởi cái cảnh mưa ngàn, thú dữ, tiếng cọp hoang văng vẳng đêm đêm nơi xứ Mường Hịch, tiếc thác chảy thét gầm trong những chiều hoàng hôn phủ lặng…Sau những chặng đường dài nguy khó, hai câu thơ cuối kết thúc đoạn một đã khiến người đọc cảm nhận lại được chút ấm áp, dịu nhẹ bên những kỷ niệm chan chứa tình người nơi các anh lính trẻ đi qua“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi”Gác lại phút trắc trở băng rừng, lội suối, các anh dừng lại, ngồi bên nhau quây quần nơi bản làng xa lạ nào đó. Mùi khói bếp xông lên xen lẫn tình đồng đội, đồng chí thiêng liêng, nồng ấm tựa anh em một nhà. Là hương nếp xôi nơi đất Mai Châu đã giữ dấu ân tình, là buổi chuyện trò trong những bữa cơm ngạt thơm vị khói đã làm đậm nên những kỷ niệm không phai, khó tranh đã trôi qua rất lâu, mỗi khi nhìn lại đó là những khoảng lặng, nốt trầm trong ta, để ta thêm biết ơn, thêm tự hào cho những người lính qua đoạn một bài thơ Tây Tiến nói riêng và và các chiến sĩ đã hy sinh vì dân tộc nói chung. Nhưng, với những con người ấy, những con người đã ngã xuống vì tình yêu đất nước thì đó lại là những quãng cao nhất, bản hòa âm phối khí tuyệt vời về tuổi trẻ và cuộc đời trong khúc ca đầy anh hùng của đời Phân tích đoạn 1 Tây Tiến mẫu 2Hình ảnh người lính là đề tài quen thuộc khơi nguồn cảm hứng cho các nhà văn, nhà thơ. Quang Dũng cũng là một tác giả có đóng góp quan trọng cho thơ văn của chủ đề này qua bài thơ Tây Tiến. Bài thơ chứa đựng những giá trị, ý nghĩa sâu xa, đặc sắc, đặc biệt là đoạn thơ đầu Tiến là đơn vị bộ đội thành lập năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào, địa bàn hoạt động suốt miền núi Tây Bắc từ Châu Mai, Châu Mộc sang Sầm Nứa cho tới miền Tây Thanh Hoá. Cuối năm 1948 Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác, bài thơ là những hồi tưởng của ông về thời kì huy hoàng của binh đoàn. Mở đầu bài thơ là nỗi nhớ về ngày xưa cũ“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”Câu cảm thán thể hiện sự tiếc nuối của tác giả về những ngày cùng binh đoàn Tây Tiến hoạt động, chiến đấu nay đã trôi xa chỉ còn lại kí ức và nỗi nhớ. Nỗi nhớ ấy được khắc họa bằng từ láy “chơi vơi”. Đó là nỗi nhớ lênh đênh, vô định nhưng luôn thường trực trong lòng người chiến sĩ. Không chỉ nhớ những người đồng chí, đồng đội, anh còn nhớ cả rừng núi, nhiên nhiên, những nơi mình đã đặt chân qua. Tất cả luôn thường trực trong kí ức, da diết, ngân vang bao trùm cả không gian và thời gian.“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”“Sài Khao” là nơi đoàn quân mỏi mòn trong lớp sương mờ dày đặc để đi đến chiến trường; "Mường Lát” gắn với những đêm ẩm ướt đọng đầy hơi nước và hương hoa. Đó là những địa danh mà binh đoàn đi gợi những kỉ niệm về một vùng núi cao, sương mờ, không gian tuy khó khăn, thiếu thốn nhưng cũng vô cùng thơ mộng, trữ tình.“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,….………………………………………Nhà ai Pha Luông, mưa xa khơi.”Từ láy “khúc khuỷu, thăm thẳm” gợi sự hiểm trở của thiên nhiên. Đường hành quân của người chiến sĩ không những dài mà còn gập ghềnh, khúc khuỷu, sâu hun hút chất chứa nhiều nguy hiểm. Bên cạnh đó, người lính còn phải vượt qua những ngọn núi cao, dốc sâu vắng lặng, hoang vu cảm giác mũi súng chạm đến tận trời xanh; cứ thế, lên cao lại xuống thấp vô cùng khó khăn, gian nhiên, sau những gian khổ đó, người chiến sĩ lại nhận về phần thưởng xứng đáng đó là hình ảnh “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đứng ở trên cao phóng ánh nhìn ra xa, thu vào tầm mắt của mình là cảnh làng xóm Pha Luông mờ ảo trong lớp sương vô cùng thơ mộng hiếm nơi nào có được. Tuy nhiên, bên cạnh vẻ đẹp, sư phấn chấn đó cũng là những nỗi buồn sâu thẳm“Anh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời!”Những khó khăn, gian khổ đôi khi làm người chiến sĩ nản chí, muốn buông xuôi. Và cả sự ra đi, hi sinh của những người đồng chí giống như anh em ruột thịt của mình càng làm cho người lính Tây Tiến đau xót. Cùng nhau chung sống, chiến đấu là thế nhưng lại có người ở người đi thử hỏi sao không khỏi buồn rầu? Nhưng không vì thế mà người chiến sĩ buông xuôi, mà đó là minh chứng cho tấm lòng dạt dào tình cảm yêu thương của họ.“Chiều chiều oai linh thác gầm thét,Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người.”Từ láy “chiều chiều, đêm đêm” gợi tần suất thường xuyên, liên tục của những gian khó. Người chiến sĩ luôn phải đối mặt với nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc bằng tiếng cọp, bằng thác dữ có thể cướp đi sinh mạng của họ bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, họ chọn cách đối mặt với chứng bằng sự dí dỏm, hài hước bằng cách coi như đó là những lời trêu đùa bên tai để cố gắng, vững tin chiến chỉ nhớ về khó khăn, gian khổ, người lính Tây Tiến còn nhớ về những kỉ niệm cùng người dân ở vùng đất nơi mình đi qua“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi.”Người chiến sĩ nhớ về ngày mùa ở Mai Châu, những gia đình lên khói nấu cơm đầu mùa, những hương vị nếp xôi của và cả những cô gái nơi đây. Tất cả đều là những kỉ niệm vô cùng đẹp đẽ, đáng yêu, đáng trân thơ không chỉ khắc họa thành công vẻ đẹp hào hoa, bi tráng của người lính Tây Tiến mà còn mang đến cho bạn đọc cách nhìn mới mẻ về những con người này. Bằng thể thơ tự do, những miêu tả sáng tạo, thú vị, giọng điệu hài hước, vui tươi, nhà thơ đã làm nên một tác phẩm giàu ý nghĩa và đậm tính nhân Tiến đã mang đến một màu sắc khác lạ góp phần làm phong phú kho tàng thơ văn Việt Nam. Nhiều năm tháng qua đi những tác phẩm vẫn giữ nguyên vẹn giá trị ban đầu của nó và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhiều thế hệ bạn các bạn tham khảo thêm các bài viết dưới đây của chúng tôiBộ đề ôn thi THPT Quốc gia năm 2020 môn Ngữ văn20 đề đọc hiểu thi THPT Quốc gia môn Ngữ vănCách làm bài văn nghị luận xã hội Dạng tổng hợpGiáo án Tây TiếnTrên đây VnDoc đã giới thiệu tới các em Phân tích đoạn 1 Tây Tiến. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài viết rồi đúng không ạ? Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm nhiều tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn 12 nhé. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các em học sinh tài liệu Lý thuyết môn Địa lí lớp 12, Trắc nghiệm Tiếng Anh 12 mới, Chuyên đề Hóa học 12, Giải bài tập Sinh học 12 mà VnDoc tổng hợp và đăng tham khảo thêm nhiều đề thi và tài liệu học tập hay khác, trao đổi với thầy cô và giáo viên, mời các bạn tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 12 .Chúc các em đạt kết quả cao trong kỳ thi của mình.
Quang Dũng 1921-1988 là một nghệ sĩ đa tài nhưng lĩnh vực thơ ca nổi trội nhất. Thơ ông hào hoa, phóng khoáng, tinh tế mà lãng mạn như con người ông vậy. Vẻ đẹp thơ Quang Dũng toát lên từ cái chân thật, mộc mạc, đau khổ của đời sống; từ biệt tài sử dụng ngôn ngữ có yếu tố bất ngờ; từ thủ pháp liên hệ, gợi mở độc đáo...Chính vì vậy, mỗi khi đọc lại thơ Quang Dũng, chúng ta luôn thấy mới mẻ, hấp dẫn. Chỉ riêng trong Tây Tiến, về thủ pháp liên hệ, gợi mở, chúng ta có những câu thơ, khổ thơ - Mường Lát hoa về trong đêm hơi - Heo hút cồn mây súng ngửi trời - Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa - Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ - Có thấy hồn lau nẻo bến bờ - Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. - Áo bào thay chiếu anh về đất - Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi Trong các câu thơ, khổ thơ đã nêu, "Mường Lát hoa về trong đêm hơi" ít được phân tích, giải thích cặn kẽ ở những bài viết về Tây Tiến. Câu thơ chỉ một thanh trắc còn lại là thanh bằng, cho nên về âm hưởng gợi cho người đọc cảm giác nhẹ nhàng, lắng đọng, trìu mến. Tại sao lại "Mường Lát hoa về trong đêm hơi"? Giải thích phải có căn cứ, và cho dù có liên hệ, liên tưởng vẫn phải bám vào văn bản. Trước tiên, tìm hiểu về "đêm hơi", chúng ta hiểu "hơi" là phụ từ thường kết hợp tính từ để chỉ mức độ, ví dụ - Hơi cay; hơi mặn; hơi đắng; hơi chua... Nhưng không phải lúc nào "hơi" cũng là phụ từ, ví dụ - Hơi rượu tỏa - Quen hơi bén tiếng Vậy "hơi" trong "đêm hơi" được tác giả dùng như thế nào thì chúng ta phải suy xét trong văn cảnh. Và câu thơ còn một "ẩn số" cần giải quyết nữa là "hoa về". Theo logic cảm xúc nghệ thuật, thủ pháp dùng từ, trong bài thơ cũng đã dùng khá nhiều liên hệ gợi mở như đã nêu ở trên, phân tích một ví dụ để thấy rõ hơn Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm Nói "kiều thơm" là những cô gái, thiếu nữ không ai phản ứng cả. Đây là liên hệ giữa vẻ đẹp nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du với thiếu nữ Hà Nội. Còn "hoa về" là liên hệ ở tầng bậc xa. Trước tiên "hoa" ở đây là người. Tục ngữ Việt Nam ta có câu - Người ta là hoa của đất Hay khi so sánh hoa và người ở bộ phận - Cười tươi như hoa Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang - Nguyễn Du - Mặt đẹp như hoa - Mặt hoa da phấn Chúng ta thấy những sự so sánh ấy đều dành cho phái nữ. Vậy "hoa về" trong câu thơ có thể hiểu là em về, các em về. Đặt câu thơ trong logic đối "Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi / Mường Lát hoa về trong đêm hơi" thì cái cảm nhận trực giác về địa danh, chưa nói đến kiến thức địa lý, chúng ta thấy Sài Khao là một địa danh nhưng không gắn chặt với cộng đồng thôn, bản bằng Mường Lát. Cảm nhận cái mệt mỏi với cái vui sướng hay nói cách khác là sau cái bi là cái tráng, song hành nhau thì những người lính ở biên cương vui gì bằng khi thấy hình bóng các sơn nữ "hoa về trong đêm hơi". Ở góc độ quan sát, khi thấy được 'sương lấp", 'đoàn quân mỏi" người đọc có thể xác định được thời gian. Chắc chắn khi viết được những câu thơ hay như thế Quang Dũng không thể không đọc, không thấm những câu thơ tuyệt hay của Bà huyện Thanh Quan Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi Dặm liễu sương sa khách bước dồn Nếu ở Sài Khao sương xuống rồi, mỏi mệt rồi mà vẫn hành quân thì ở Mường Lát, những chàng lính ấy lại vui vẻ đón những sơn nữ về bản sau một ngày lao động khi màn đêm bắt đầu buông. Ở miền núi sẩm tối, sương xuống bàng bạc, trong thời khắc tranh tối tranh sáng ấy, ngòi bút tài hoa của Quang Dũng thay vì viết "màn đêm buông" là 'hơi đêm", một cách thể hiện táo bạo. Nhưng dùng "hơi đêm", nghĩa là "mới vào đêm", "đêm chưa sâu" không thể lột tả hết vẻ yên tĩnh, bí ẩn bằng "đêm hơi". Thủ pháp đảo ngữ dùng để nhấn mạnh ý tứ trong thơ không có gì lạ nhưng dùng thủ pháp liên hệ, gợi mở bằng đảo trật tự từ trong câu thơ Mường Lát hoa về trong đêm hơi là sáng tạo của Quang Dũng. Ít bắt gặp thủ pháp này trong thơ nên câu thơ như một câu đố là vì thế. Đọc thơ Quang Dũng muốn cảm nhận được cái hay, cái đẹp, người đọc phải có vốn hiểu biết về thời đại, nhiệt huyết cách mạng thế hệ ông và tâm hồn luôn rộng mở, phóng khoáng đậm chất lính.
ANTĐ - Có lẽ, địa danh Mường Lát nổi tiếng từ một câu thơ trong bài “Tây Tiến” của Quang Dũng. Mường Lát vốn thuộc tỉnh Thanh Hóa, nhưng lại nằm trong vùng Tây Bắc. Sau gần 1 ngày với đủ bụi đường, khúc cua tay áo, lên dốc, qua ngầm, vượt suối, chúng tôi đã đến với nơi này. Đêm Mường Lát nhiệt độ khác hẳn ban ngày khi sương núi giăng xuống và lần đầu tiên trong đời, tôi được hiểu đến tận cùng câu thơ của thi sĩ xứ Đoài “Hoa về trong đêm hơi”. Phố chợ Mường Lát Chuyến đi đến xã Mường Lý, huyện Mường Lát của chúng tôi xuất phát từ hình ảnh những đứa trẻ phải dựng lều bên sườn dốc để theo học tiểu học. Thắc mắc Mường Lý là nơi nào mà khổ thế, thiếu thốn thế. Và thế rồi, chúng tôi đã có một chuyến đi không bao giờ quên. Đường đến Mường Lát trước kia của dân du lịch bụi là “đường tre suối muống” dài 40km dẫn từ Mai Châu qua Co Lương nhưng lần này chúng tôi chọn đường Hồ Chí Minh, rẽ lối Na Mèo rồi len lỏi vào tận Mường Lát, chạm chân đến mảnh đất này cũng vừa 4h chiều. Thị trấn Mường Lát nhỏ với những con đường dốc đặc trưng của vùng núi. Chỉ có một khách sạn duy nhất với sức chứa chỉ vài chục người. Chợ Mường Lát nằm ngay đường qua thị trấn với những gian hàng là gầm của nhà sàn người Thái. Chàng trai Thanh Hóa làm nghề may đang là chiếc áo trước khi giao cho khách thấy dân du lịch từ xa tới cứ nhất định mời vào nhà uống chén nước với nụ cười “Vào nhà xơi chén nước đã anh ơi. Hà Nội không vội được đâu”. Chả cần mời đến lần thứ hai, chúng tôi đã dựng xe, ào vào nhà nhấp chén trà đắc-cơi, thứ nước nấu từ rễ và cây rừng có màu đỏ nhạt, vị thì giống nước gạo rang. Sau vài câu chuyện đưa đẩy, chàng thợ may mách vào nhà sàn của dân mà ngủ nhờ, vừa ấm áp vừa vui, người dân ở đây quý khách lắm. Nói vậy nhưng rồi cũng chả biết nhà dân nào cho ngủ nhờ, những bước chân xê dịch lại tiếp tục khám phá thị trấn heo hút này. Rồi gặp một cô gái đang vật vã với chiếc xe máy bất ngờ dở chứng, sẵn đồ, cả nhóm xúm lại và chỉ sau 15 phút, chiếc xe đã nổ máy ngon lành. Hỏi thăm nhà sàn nào cho ngủ nhờ, cô gái nhìn lướt rồi mời “Các anh chị lên nhà em mà ngủ, nhà em là nhà sàn dưới dốc kia”. Nhà sàn... và chàng thợ may vui tính trong chợ Mường Lát Bữa ăn tối hôm đó ở nhà cô gái có thịt vịt nướng, gà núi, măng luộc. Thứ gà núi ăn ngô leo dốc nên thịt chắc, giòn. Giống vịt Lào chỉ có ở vùng biên được nướng lụi trên than hồng. Và đặc biệt nhất là măng, thứ măng nứa luộc chấm muối vừng và bát canh măng ngọt với miếng măng dày nhưng giòn. Hỏi ra mới biết là măng của cây luồng. “Tre nứa trúc mai vầu, mấy chục loại khác nhau nhưng cùng một mầm non măng mọc thẳng”. Vùng đất Thanh Hóa nổi tiếng với cây vầu, một giống tre có thân to, đường kính có khi tới 20cm rất thích hợp dựng nhà, làm sàn. Măng vầu vì thế cũng to khác thường, một cây măng đủ cho cả nhóm chúng tôi thưởng thức trong một đêm nhà sàn. Đêm Mường Lát, hơi sương vương từ đỉnh núi bảng lảng xuống mái nhà sàn. Ngồi bên bếp lửa, nhớ bài thơ “Tây Tiến”, những năm xa xưa ấy, binh đoàn Tây Tiến cầm đuốc soi đường về đến Mường Lát vào đêm sương giăng nên mới có câu “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Những ngọn đuốc soi đường được ví như những bông hoa mà có thêm câu “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” là vậy. Sáng hôm sau, rời Mường Lát để tiếp tục con đường thiên lý, trong ba lô của dân bụi lại có thêm bó măng vầu phơi khô. Hà Nội nhiều măng khô lắm nhưng măng vầu thì ít thấy.
I/MỞ BÀI Quang Dũng 1921-1988 là một nghệsĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng , hồn hậu , lãng mạn và tài hoa . Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ và thể hiện sâu sắc phong cách thơ Quang Dũng . Có thể nói , tinh hoa của bài thơ được hội tụ lại trong khổ thơ đầu tiên . Khổ thơ đã dựng lên bức tranh thiên nhiên hùng vĩ , mĩ lệ của núi rừng miền Tây , nơi nhà thơ cũng đoàn quân Tây Tiến đã từng hoạt động , chiến đấu . Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơiSài Khao sương lấp đoàn quân mỏiMường Lát hoa về trong đêm hơiDốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây,súng ngửi trờiNgàn thước lêncao, ngàn thước xuốngNhà ai Pha Luông mưa xa khơiAnh bạn dãi dầu không bước nữaGục lên súng mũ bỏ quên đời !Chiều chiều oai linh thác gầm thétĐêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngườiNhớ ôi Tây Tiến cơm lên khóiMai Châu mùa em thơm nếp xôi. II/THÂN BÀI 1/ Giới thiệu chung . Bài thơ Tây Tiến được sáng tác năm 1948 tại làng Phù Lưu Chanh , khi nhà thơ đã rời khỏi đơn vị cũ Tây Tiến , chuyển sang hoạt động tại một đơn vị khác . Tây Tiến là một đơn vị bộ đội chống Pháp được thành lập năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt Lào , tiêu hao sinh lực Pháp tại Thượng Lào và miền Tây Bắc Việt Nam . Địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến rất rộng lớn trải dài từ Sơn la , Hòa Bình , miền tây Thanh Hóa đến Sầm Nưa Lào là những nơi hiểm trở , hoangvu, rừng thiêng nước độc . Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội , có nhiều học sinh , sinh viên , trong đó có Quang Dũng . Họ sống và chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ , thiếu thốn , bệnh sốt rét hoành hành nhưng vẫn lạc quan , anh dũng . Hoạt động được hơn một năm thì đơn vị Tây Tiến trở về Hòa Bình thành lập Trung đoàn 52 . Bài thơ ra đời từ nỗi nhớ , kỉ niệm , hồi ức của Quang Dũng về đồng đội và địa bàn chiến đấu cũ . Tác phẩm sau khi ra đời đã được bao thế hệ thanh niên và bạn yêu thơ truyền tay tìm đọc . Đến năm 1986, bài thơ được in trong tập thơ Mây đầu ô xuất bản 1986 .Có thể bạn quan tâmNhững nhân vật nào trong Disney On Ice Into the Magic 2023?Có bao nhiêu số tự nhiên có 6 chữ số khác nhau trong đó có 3 chữ số chẵn và 3 chữ số lẻU20 la từ bao nhiêu tuổiAi có mũ màu cam trong IPL 2023?Hoặc những gì mong đợi từ tháng 4 năm 2023? Ban đầu bài thơ có tên là Nhớ Tây Tiến , sau đó tác giả chuyển lại thành Tây Tiến . Nhan đề Tây Tiến đảm bảo tính hàm súc của thơ , không cần phải trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ mà tình cảm ấy vẫn hiện lên sâu sắc , thấm thía . Nhan đề còn làm nổi rõ hình tượng trung tâm của tác phẩm , đó là hình tượng đoàn quân Tây Tiến . Việc bỏ đi từ nhớ đã vĩnh viễn hóa đoàn quân Tây Tiến , khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến trở thành bất tử trong thơ ca kháng chiến Việt Nam . Tây Tiến là bài thơ in đậm phong cách tài hoa , lãng mạn , phóng khoáng của hồn thơ Quang Dũng . Tác phẩm đã bộc lộ nỗi nhớ sâu sắc của nhà thơ với người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn , đậm chất bi tráng. Đoạn thơ thứ nhất đã tái dựng lại sống động bức tranh thiên nhiên miền Tây với những khung cảnh , những chặng đường hành quân gian khổ , từ đó hình ảnh những chiến sĩ Tây Tiến cũng lần lượt hiên ra . 2/ Phân tích đoạn thơ a/ Bài thơ mở ra bằng một nỗi nhớ trào dâng Sông Mã xa rồi , Tây Tiến ơi !Nhở về rừng núi , nhớ chơi vơi Tiếng gọi Tây Tiến ơi bật lên bởi một nỗi nhớ sâu sắc , cồn cào không kìm nén nổi . Đối tượng của nỗi nhớ ấy rất cụ thể , rõ ràng là sông Mã , Tây Tiến , rừng núi . Nỗi nhớ ấy phải khắc khoải lắm thì tác giả mới điệp lại hai lần từ nhớ . Nhớ chơi vơi là nỗi nhớ chập chờn hư thực , vừa tha thiết , thường trực , vừa mênh mang , đầy ám ảnh , vừa mở ra không gian của tiềm thức , vừa như gợi ra không gian trập trùng của núi đèo rộng lớn . Cách hiệp vần ơi làm câu thơ như ngân vang , phù hợp với biên độ của cảm xúc . Hai câu thơ đầu đã khơi mạch chủ đạo của cả bài thơ là nỗi nhớ khôn nguôi . Nỗi nhớ ấy được cụ thể dần dần trong những vần thơ tiếp sau . b/ Hai câu thơ tiếp gợi lại hình ảnh đoàn quân hành quân trong đêm Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi ,Mường Lát hoa về trong đêm hơi Hai câu thơ vừa tả thực , vừa sử dụng bút pháp lãng mạn .Những từ chỉ địa danh Sài Khao , Mường Lát gợi ra địa bàn rộng lớn , đầy lạ lẫm đối với người lính Tây Tiến . Sương mù vùng cao dày đặc như trùm lấp bước chân , nuốt chửng cả đoàn binh vốn đang mỏi mệt, rệu rã vì chặng đường dài gian khổ . Quang Dũng đã nhìn thấy và miêu tả một mảng hiện thực khuất lấp trong thơ ca kháng chiến . Nhưng những người lính ấy , dù mệt mỏi mà tâm hồn vẫn trẻ trung , hào hoa , lạc quan , yêu đời . Hình ảnh hoa về trong đêm hơi là hình ảnh đẹp giàu sức gợi . Đó có thể là những ánh đuốc sáng lung linh của đoàn quân đang tiến về bản làng , cũng có thể là hình ảnh đoàn quân từ rừng đi ra , trên tay vẫn cầm theo những đóa hoa rừng ngát hương , mà đó cũng có thể là hình ảnh ẩn dụ về đoàn quân Tây Tiến như những bông hoa rừng . Đoàn quân ấy hành quân trong một đêm hơi đầy huyền ảo , mơ hồ , bảng lảng khói sương chốn rừng suối . Hai câu thơ in đậm dấu ấn tài hoa , lãng mạn của Quang Dũng . c/Bốn câu thơ tiếp theo đặc tả địa hình hiểm trở của miền Tây Dốc lên khúc khuỷu , dốc thăm thẳmHeo hút cồn mây súng ngửi trời ,Ngàn thước lên cao , ngàn thước xuống ,Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi . Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy tượng hình khúc khuỷu , thăm thẳm, heo hút , kết hợp với cách ngắt nhịp 4/3 như chặt đôi câu thơ , mật độ thanh trắc dày đặc khiến câu thơ trúc trắc gợi sự vất vả , nhọc nhằn . Những phép tu từ đó mở ra trong tâm tưởng người đọc ấn tượng về sự gập ghềnh , hiểm trở , ẩn chứa bao bất trắc , nguy hiểm của núi cao , vực sâu nơi núi rừng miền Tây . Hình ảnh súng ngửi trời là một nhân hóa táo bạo , đặc tả sự chót vót của dốc núi . Người lính Tây Tiến leo lên đỉnh dốc , cảm tưởng như mũi súng có thể chạm mây . Từ đó , ta cũng thấy được nét tinh nghịch khỏe khoắn , vẫn có thể trêu đùa vô tư sau một chặng đường hành quân vất vả , mệt nhọc của các anh lính Tây Tiến . Phép đối ngàn thước lên cao ngàn thước xuống càng nhấn mạnh độ gập ghềnh , hình sông thế núi trập trùng , hiểm trở của thiên nhiên miền Tây . Ba câu thơ giàu chất hội họa , dựng lên bức tranh hoang vu , dốc đèo đứt nối , hùng vĩ trên con đường hành quân của chiến sĩ Tây Tiến . Câu thơ thứ tư toàn bộ là bảy thanh bằng Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi , vần mở ơi đặt cuối câu tạo cảm giác nhẹ nhàng gợi ra những phút giây nghỉ ngơi thư giãn của người lính . Họ đứng trên những đỉnh núi , thưởng thức chút bình yên , vẻ đẹp lãng mạn của núi rừng , phóng tầm mắt , thấy mưa rừng giăng mờ nơi bản làng Pha Luông xa xôi . Bốn câu thơ vừa gợi ra sự dữ dội hoang vu , sự êm đềm của núi rừng , vừa gợi ra những cuộc hành quân vất vả nhọc mệt nhưng đầy trẻ trung , yêu đời của các chàng trai Tây Tiến . d/Người lính Tây Tiến không chỉ đối diện với dốc cao vực sâu mà còn phải chịu những mất mát hi sinh Anh bạn dãi dầu không bước nữa ,Gục lên súng mũ bỏ quên đời . Cách nói tránh về cái chết không bước nữa , bỏ quên đời gợi tư thế ngạo nghễ của người lính Tây Tiến . Họ chủ động chấp nhận cái chết , coi nó chỉ đơn giản như một giấc ngủ mà thôi . Tư thế hi sinh gục lên súng mũ đầy xót xa nhưng cũng thật hào hùng . Hình ảnh về người lính anh dũng hi sinh ấy sau này ta còn bắt gặp trong Dáng đứng Việt Nam Và anh chết trong khi đang đứng bắn- Máu anh phun theo lửa đạn cầu vồng . Câu thơ đã tiếp tục cảm hứng bi tráng khi xây dựng chân dung người lính Tây Tiến . e/Và người lính Tây Tiến tiếp tục chịu sự thử thách của núi rừng miền Tây Chiều chiều oai linh thác gầm thét ,Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người . Các từ láy chỉ biên độ lặp lại thường xuyên của thời gian chiều chiều , đêm đêm kết hợp với biện pháp nhân hóa thác gầm thét , cọp trêu người đã nhấn mạnh vẻ bí hiểm , dữ dội ,hoang dã chứa đầy nguy hiểm , cái chết luôn luôn rình rập đe dọa người lính của núi rừng miền Tây . Sự nguy hiểm ấy không chỉ trải rộng trong không gian mà còn kéo dài và lặp lại thường xuyên theo thời gian . g/Hai câu thơ cuối đoạn lại đột ngột chuyển cảnh Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói ,Mai Châu mùa em thơm nếp xôi . Núi cao rừng rậm lùi xa , chỉ còn lại hương vị ấm áp nghĩa tình quân dân lan tỏa từ nồi cơm của các cô gái Thái . Từ cảm thán Nhớ ôi đứng đầu câu thơ diễn tả nỗi nhớ da diết , ám ảnh khôn khuây của Quang Dũng cũng như người lính Tây Tiến về đồng bào miền Tây . Nhà thơ như nhói lòng khi hồi tưởng lại cảnh đoàn quân quây quần quanh nồi xôi nếp thơm lừng đang bốc khói . Đó là những giây phút ấm áp ngắn ngủi nhưng lại dịu ngọt , tinh tế nên khắc sâu mãi trong tâm trí nhà thơ . Cách kết hợp từ mùa em rất độc đáo , gợi những liên tưởng đẹp , lãng mạn về những cô gái Thái vừa khỏe khoắn vừa dịu dàng mà đằm thắm yêu thương . Hai câu thơ kết thúc đoạn một bài thơ Tây Tiến có âm điệu nhẹ nhàng tha thiết gợi cảm giác êm dịu , ấm áp , tạo tâm thế cho người đọc cảm nhận đoạn thơ tiếp theo . Trong những đoạn thơ còn lại , nhà thơ Quang Dũng tiếp tục hồi tưởng về cảnh những đêm liên hoan văn nghệ thắm thiết tình quân dân , những buổi chiều trên sông nước miền Tây thơ mộng , hư ảo , hồi tưởng về chân dung tập thể những người lính Tây Tiến anh dũng , hào hoa . Cuối bài thơ , Quang Dũng bộc lộ lời nguyện thề mãi gắn bó với miền Tây và đoàn quân Tây Tiến . III/ KẾT BÀI . Đoạn thơ đầu bài thơ Tây Tiến đã thể hiện tài hoa và tâm hồn lãng mạn phóng khoáng của nhà thơ Quang Dũng . Đoạn thơ có ngôn ngữ giàu chất tạo hình , giàu nhạc điệu , gây ấn tượng táo bạo , dựng lên bức tranh sinh động , có chiều sâu về cảnh hành quân của đoàn quân Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên rừng núi hùng vĩ thơ mộng miền Tây . Qua đó , ta cảm nhận được sự gắn bó sâu sắc , nỗi nhớ tha thiết của nhà thơ Quang Dũng về những ngày tháng chiến đấu trong đoàn quân Tây Tiến một thời mãi mãi để nhớ và tự hào
Nhắc đến Mường Lát, ta nghĩ ngay đến bài thơ Tây Tiến-“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc-quân xanh màu áo giữ oai hùm”.Trong những năm tháng kháng chiến Hòa Bình vẫn đẹp, vẫn trừ tình và lãng mạn trong mắt nhà thơ đa tài Quang mường lát mơ màng, mang một hơi thở tràn đầy sức sống mặc dù trong bom cùng chúng tôi du lịch Thanh Hóa về với Mường lát xinh đẹp trở thành huyền thoại này nhé. Mường Lát hoa về trong đêm hơi Tôi kể cho bạn chuyến đi đến Mường Lát của đoàn du lịch, đó là một kỷ niệm đáng nhơ trong suốt quãng thời gian tuổi trẻ, đầy nhựa sống và hừng hực sức với Mường Lát vào ngột ngày đẹp trời, con đường ngoằn nghèo,khó đi, bụi tung trắng xóa nhưng không ngăn được trái tim về với vùng đất “hoa về trong đêm hơi”. Đoạn đường đi từ thành phố Thanh Hóa về đây còn nhiều chông gai, dốc núi cheo leo cản chân du quãng đường này tôi hình dung ra một Mường Lát được thiên nhiên bao bọc, tách xa cái ồn ào đời sống thường ngày,ung dung mà tự tại. Một bản làng bình yên ở Mường Lát Những khúc cua tay áo, lên dốc, xuống đèo,qua ngầm, vượt suối…cuối cùng cũng đã vào vùng đất “thánh địa” của Tây Tiến. Thật tuỵêt vời!, đó là cảm nhận của cả Mường Lát nhiệt đọ khác hẳn ban ngày khi màn sương phủ giăng xuống và lần đầu tiên tôi hiểu hết ý nghã câu thơ Quang Dũng tả về vùng đất này “hoa về trong đêm hơi”.Làm sương ấy ta cứ ngõ chốn thần tiên, nơi ở của các bậc thanh cao thánh thần. Chuyến đi đến xã Mường Lý, huyện Mường Lát này xuất phát từ lúc rảnh rỗi ngồi đọc báo và xem những hình ảnh trẻ em dụng lều trên sườn dốc để theo học tiểu như sự thắc mắc về vùng đất nơi này con khổ thế, còn nhiều khó khăn và thiếu thốn thế rồi, một cuộc hành trình bắt đầu với kế hoạch rõ ràng, chi thành viên hồi hộp, chờ đợi chuyến đến Mường Lát trước kia của dân du lịch bụi là “đường tre suối muống” dài 40km dẫn từ Mai Châu quan Co Lương nhưng lần này chúng tôi chọn đường Hồ Chí Minh rẽ lối Na Mèo rồi lên lỏi vào tận Mường Lát. Một ngôi nhà chênh vênh bên sườn núi Thị trấn Mường Lát nhỏ với những con dốc đặc trưng của vùng đây chỉ có một khách sạn duy nhất với sức chứa chỉ vài chục Mường Lát nằm ngay đường qua thị trấn với những gian hàng là gầm nhà sàn người mặt hàng nông sản, thủ công được bày bán khá bắt mắt. Qủa thực người dân nơi đây rất mén khách, họ mời vào nhà “xơi nước”, có thể cho ngủ nhờ qua đêm mà không bận tâm gì. Đàn trâu ra đồng ở Mường Lát Chúng tôi ngủ nhờ nhà một cô gái, bữa tối đó rất thịnh soạn, có thịt vịt nướng, gà núi, măng thật thức ăn ngon tuyệt, những chú gà, chú vịt thả rông, nuôi bằng ngô lúa nên thịt thơm ngon, ăn giòn, biệt nhất chính là giống Vịt Lào chỉ có vùng biên giới nướng lụi trên tham đặc biệt nhất là măng, thứ măng nứa chấm muối vùng bà bát canh măng ngọt với miếng măng dày, nhưng ra mới biết là cây luồng “tre trúc mai vầu, mấy chục loại khác nhua nhưng cùng một mầm măng mọc thẳng”. Một cây cầu qua suối Vùng đất Thanh Hóa nổi tiếng với cây vầu, một giống tre có thân to, đường kính tới 20 cm, được dùng làm vầu vì thế mà cũng to khách cây tre đủ để cả nhóm thưởng thức. Đêm Mường Lát, hơi sương vương từ đỉnh núi bảng lảng xuống mái nhà sàn, đôi lúc tràn vào trong nhà, nhìn vào phiêu bồng khó tả, nhát là khi có ánh đèn lung linh. Ngồi bên bếp lửa, nhớ bài thơ “Tây Tiến”, những năm xa xưa ấy, binh đoàn Tây Tiến cầm đuốc soi đường về đến Mường Lát vào đêm sương giăng nên mới có câu “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”. Những ngọn đuốc soi đường được ví như những bông hoa mà có thêm câu “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” là vậy. Sáng hôm sau, rời Mường Lát để tiếp tục con đường thiên lý, trong ba lô của dân bụi lại có thêm bó măng vầu phơi khô. Hà Nội nhiều măng khô lắm nhưng măng vầu thì ít thấy.